Du lịch Quế Sơn, Khám phá vùng đất Quế Sơn từ A đến Z
Đi dọc chiều dài của huyện Quế Sơn từ đông sang tây mọi người sẽ được khám phá nhiều điều kỳ thú đến ngỡ ngàng. Du khách sẽ trầm trồ bởi khung cảnh thiên nhiên vẫn còn rất hoang sơ, hùng vĩ của một Suối Tiên kì bí, rồi Cấm Dơi tráng lệ, một Suối mát-Đèo Le mơ mộng sương khói, rồi đến Hòn Chiêng, Hòn Tàu bí ẩn, một Hồ Giang tịnh lặng êm ả…
1. Suối Tiên
- Quyến rũ du khách với hệ thống thác nước, trắng xoá tuôn chảy như những dải lụa trắng bồng bềnh giữa đại ngàn. Du khách mặc sức đắm mình, mơ mộng, khám phá từng con suối với từng vẻ đẹp riêng. Phong cảnh nơi đây hết sức thơ mộng nhờ vào hồ nước nhân tạo dưới chân suối Tiên với làn nước xanh ngắt, mặt hồ phẳng lặng như từ ngàn đời chưa một lần biến động in hình bóng núi tạo nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình quyến rũ bao khách lãng du.
-
Suối Tiên là điểm du lịch khá lý tưởng gồm 13 thác nước liên hoàn ngày đêm rì rào chảy giữa vùng núi non hùng vĩ, cảnh đẹp chẳng khác nào chốn bồng lai. Ở phía đầu nguồn, từ trên đỉnh cao khoảng 400 mét dòng nước tuôn trào xuống các tảng đá tung bọt trắng xoá và tạo nên những cung bậc âm thanh sống động nối tiếp nhau rì rào, thì thầm giữa khu rừng đại ngàn. Đến với suối Tiên, ngoài việc thưởng lãm phong cảnh thiên nhiên hữu tình, trầm mình trong làn nước trong xanh mát lạnh để xua tan cảm giác mệt nhọc sau những ngày lao động vất vả, du khách đặt phòng khách sạn còn được tham quan suối nước Mát, hồ nước nóng và các món ăn đặc sản của Quế Sơn.
-
Hiện nay, công trình hồ chứa nước Suối Tiên có tổng diện tích 21ha, trong đó diện tích mặt hồ trên 11ha, dung tích chứa nước hơn 760 nghìn mét khối, cung cấp nước tưới cho 270ha lúa của xã Quế Hiệp; đồng thời tạo cảnh quan một khu du lịch sinh thái. Nơi đây, được xây dựng Khu du lịch sinh thái Suối Tiên với 5 khu vực cảnh quan, kiến trúc liền kề tương ứng với từng nhóm chức năng khác nhau theo mô hình du lịch – dịch vụ vui chơi, giải trí – nghỉ dưỡng
2. Đèo Le
- Vượt qua đèo Đá Trắng, lúc này Hồ Giang, Suối Nước Mát – Đèo Le đã hiện ra như một bức tranh vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Hồ Giang là một hồ nước nhân tạo nằm dưới chân Đèo Le. Sáng sớm, không khí rất trong lành, từng làn gió mát, ánh mặt trời len qua các kẽ lá chiếu xuống những con đường gập ghềnh đá sỏi. Những trưa nắng, gió miên man đuổi nhau trên tấm thảm nhung của những cánh rừng xanh ngát. Đất trời ngả về chiều, gió hơi se lạnh, cảm giác thư thái, bay bổng khiến lữ khách quên hết những nhọc nhằn của cuộc sống bề bộn.
- Ở trên Hồ Giang là khu du lịch sinh thái Suối Nước Mát – Đèo Le. Một khu du lịch được thiên nhiên ưu đãi ban tặng với thắng cảnh hùng vĩ, thơ mộng và đầy bí ẩn luôn mời gọi du khách bốn phương. Suối Nước Mát xuất phát từ đỉnh Hòn Tàu, len lỏi qua nhiều vách núi, róc rách đổ về Đèo Le tạo nên một cảnh trí hữu tình, thơ mộng đem lại cho du khách một cảm giác thư giãn tột cùng khi đến đây. Sự kết hợp giữa núi rừng hoang sơ và bàn tay tô vẽ của con người khiến thiên nhiên càng thêm hấp dẫn. Rất nhiều bậc tam cấp bằng đá được xây thành hai đường về hai phía đi lên hồ tắm và đầu nguồn suối Mát. Rồi những tảng đá lớn với nhiều hình khối khác nhau được xếp tự nhiên và kì thú. Là hồ tắm nhân tạo rộng và độc đáo; những nhà hàng, quán bar, nhà nghỉ được xây dựng bên những con suối ẩn khuất sau bóng mát của rừng nhằm phục vụ du khách
-
Gà Tre là đặc sản từ lâu đời của vùng quê Quế Sơn – Quảng Nam. Du khách đến đây không thể bỏ qua món ngon này. Gà Tre ngon, mềm, thịt chắc, món gà lại được nấu từ mạch nước ngọt mát trên đầu nguồn nên giữ được vị gà.
-
Gà Tre được chế biến thành nhiều món, rất đa dạng: gà rôti, gà nướng, gà luộc,… Ăn kèm với gà là miến, xôi vò, cháo.
-
Gà Tre vốn dĩ được nhiều người ưa chuộng do gà được nuôi thả bộ, sống tự nhiên. Mỗi con nặng khoàng 0,6 – 0,8 kí.
-
khi đi dọc dưới chân đèo Le, du khách sẽ dễ dàng bắt gặp được các quán gà Tre mọc san sát nhau. Du khách có thể dừng chân nghỉ ngơi tại quán và thưởng thức đặc sản nơi đây. Sẽ tuyệt hơn nếu thưởng thức gà tre cùng với một ly bia mát lạnh.
-
Giá gà Tre dao động từ 140.000 – 160.000 đồng/con và còn tùy thuộc thời điểm.
-
Ngoài ra, nếu bạn có nhu cầu ở lại dài ngày để tận hưởng không khí này, nơi đây còn có nhà nghỉ. Bạn tha hồ ở lại để ăn hết những món ngon từ gà Tre
-
Gà Tre đèo Le đã trở thành niềm tự hào của người dân xứ Quảng nói chung, đặc biệt là người dân Quế Sơn nói riêng. Họ luôn cố gắng giữ gìn thương hiệu này, thu hút ngày càng nhiều du khách đến đây trải nghiệm, tham quan.
-
Suối Mát đèo Le là cảnh đẹp của tự nhiên ban tặng cho con người. Du khách đến đây chắc chắn sẽ hiểu hơn về văn hóa và con người Quảng Nam vốn hiếu khách, cởi mở. Nếu đến Quảng Nam các bạn đừng quên tận hưởng vẻ đẹp suối Nước Mát và thưởng thức hương vị gà Tre tuyệt hảo cùng Hành trình du lịch nhé!
4. Nhà tưởng niệm cụ Đỗ Quang
- Quế Sơn không chỉ hấp dẫn khách du lịch bằng những thắng cảnh đẹp mà còn được đến thăm các di tích lịch sử như nhà tưởng niệm cụ Đỗ Quang, đây là người thanh niên Cách mạng đồng chí hội đầu tiên của tỉnh Quảng Nam anh hùng; nhà thờ tiến sĩ Phan Quang, một trong “Ngũ phụng tề phi” của đất Quảng tài giỏi; và cụm di tích chiến thắng Quế Sơn nằm ở ngay trung tâm của huyện.
- Ở đây du khách có thể tham quan Tượng đài chiến thắng, đến Đền tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ để hoài niệm về một thời hào hùng, thắp một nén hương tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ đã ra đi để đem lại sự yên bình cho vùng đất thân yêu.
5. Làng nón Quế Minh
- Bên cạnh đó du khách còn có thể tham quan các làng nghề truyền thống của đất Quế Sơn. Một làng nghề truyền thống vẫn còn giữ được những nét xưa_làng nón Quế Minh nằm ở ven sông Ly Ly, du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên trước những bàn tay điệu nghệ cùng đường kim thanh thoát nhanh nhẹn của những “nghệ nhân” một nắng hai sương cần cù kết nên những chiếc nón trắng nõn nà, tròn trĩnh đầy nghệ thuật .
-
Ai cũng biết nón lá cổ truyền của người Việt, thế nhưng chưa chắc ai cũng được thử đội qua hoặc am hiểu về nón của làng Quế Minh sản xuất. Làng nón Quế Minh thuộc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam với hơn 400 năm tồn tại và phát triển. Nón ở đây khác hẳn với những chiếc nón lá được sử dụng rộng rãi như nón lá Dạ Lê ở Huế hay nón lá làng Chuông ở Hà Tây. Nón được làm chắc chắn, tỉ mỉ trong từng đường kim mũi chỉ, vô cùng chắc chắn và cứng cáp, được nhiều người sử dụng cho đến ngày nay. Du khách du lịch Quảng Nam thường lựa chọn nón như một món quà lưu niệm mang về.
-
Trở về khoảng thời gian hơn 400 năm trước, ở địa phương vốn chỉ có vài ba hộ dân làm nón lá, sau đó phát triển lên thành hơn 300 hộ thuộc địa phận cả 2 làng Diên Lộc và Đại Lộc. Nón được đem đi khắp các tỉnh miền Trung, có ngày phải làm được hơn 2000 cái mới đủ đáp ứng lượng người mua.
-
Làm nón lá không quá khó, thu nhập tuy không quá cao nhưng vẫn đủ sống. Nghề làm nón là niềm tự hào của người dân nơi đây nên nghề vẫn được duy trì cho đến tận hơn 400 năm qua. Hiện tại phần lớn các hộ còn giữ nghề đều tập trung ở làng Diên Lộc.
-
Tuy nổi tiếng và thân thuộc với cuộc sống của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Trung, Quảng Nam, nhưng thị trường tiêu dùng trong nước ngày càng có nhiều thay đổi, nón lá cũng không bán được nhiều như trước nhưng từ người trẻ cho đến các cụ già 70 vẫn miệt mài đâm từng mũi khâu để tạo ra những chiếc nón đẹp và chắc chắn nhất. Du khách đến du lịch Quảng Nam ghé qua làng nón Quế Minh vẫn sẽ được tận mắt quan sát từng công đoạn làm ra một chiếc nón từ đạp lá, phơi lá, vót vành cho đến chằm nón, nứt vành,… đều phải tỉ mỉ và kĩ càng.
-
Vào ngày 9-9-2013, làng nghề truyền thống Quế Minh đã được nhà nước công nhận thông qua quyết định của UBND tỉnh. Đây chính là động lực chính để làng nghề được duy trì và góp phần giúp phát triển du lịch Quảng Nam.
-
Nếu chưa từng ghé thăm làng nghề nón Quế Minh thì đấy sẽ là một điều thiếu sót lớn trong chuyến du lịch Quảng Nam của bạn đấy!
6. Làng Phở Sắn Đông Phú
- Nghề làm phở sắn ở thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn (Quảng Nam) dù đã trải qua bao thăng trầm và khá vất vả, thế nhưng nhiều nông dân ở Quế Sơn vẫn ngày đêm cần mẫn với công việc và “giữ lửa” cho làng nghề.
- Từ lâu đời, cây sắn (khoai mì) trở thành cây lương thực quan trọng nuôi sống con người và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Người Quế Sơn cần cù, chịu khó và giàu sáng kiến đã biến loại cây chủ lực quê mình thành món đặc sản mà “ăn một lần là nhớ mãi”. Giờ đây phở sắn đang kỳ vọng sẽ mở ra một hướng đi phát triển cho người dân nơi đây.
- Dù cuộc sống hiện đại có nhiều món ăn ngon hơn, bổ dưỡng hơn nhưng tại các lễ tiệc Phở Sắn vẫn là món khoái khẩu của người dân Quế Sơn và níu chân nhiều khách phương xa. Chả biết từ bao giờ, đây bỗng trở thành món quà quê của những ai ra thành thị, như muốn giữ lại một hình ảnh quê hương.
-
Từ lâu đời, cây sắn đã gắn bó và trở thành một loại lương thực không thể thiếu được của người dân Quế Sơn. Cây sắn được trồng quanh năm, vụ nối vụ, mùa tiếp mùa. Thời lúa gạo thiếu thốn, người dân phải ăn củ sắn thay cơm quanh năm.
- Luộc ăn chán, người dân xoay ra chế biến sắn thành nhiều món ăn lạ miệng, khoái khẩu như bánh đập, bánh trôi, bánh tráng và cả một món khá sang trọng – phở sắn. Nghề làm phở sắn theo đó ra đời và trở thành một nghề truyền thống.
- Những năm đầu thập niên 1960, nhiều lò chế biến phở sắn bắt đầu xuất hiện và phát triển. Nhưng thời chiến tranh nên phở sắn cũng gặp cảnh lênh đênh, mai một. Hơn 20 năm gần đây nghề làm phở sắn có nhiều khởi sắc. Tiếng tăm món phở mang tên vùng đất thảo thơm hương quê bắt đầu lan dần khắp các tỉnh.
- Dạo một vòng quanh làng Thuận An, thị trấn Đông Phú – nơi chế biến phở sắn nhiều nhất huyện Quế Sơn, đồng thời đã đăng ký thương hiệu phở sắn vào năm 2009 – đâu đâu cũng ngập tràn màu trắng lấp lóa của những phên phở sắn phơi dưới nắng vàng.
7. Làng gốm Sơn Thắng – Quế An
- Rồi làng gốm Sơn Thắng thuộc xã Quế An, một làng gốm nổi tiếng với những sản phẩm thủ công hết sức phong phú đa dạng sẽ tiếp tục làm nao lòng bất cứ một du khách khó tính nào. Độc đáo nhất là người thợ thủ công khi làm gốm đã không dùng bàn xoay như những làng gốm khác, sản phẩm được nung chín bằng lửa rơm chứ không phải là củi.
- Những cảnh quan thiên nhiên vẫn còn những nét hoang sơ, môi trường sinh thái trong lành, các món ăn dân dã của đồng nội, đậm đà nghĩa tình vùng quê, với những con người chân chất, hiền hoà mến khách, một vùng đất có truyền thống văn hoá và lịch sử cách mạng anh hùng lâu đời… Những điều này sẽ là điều kiện lý tưởng để du lịch Quế Sơn chuyển mình phát triển trong giai đoạn mới, xứng tầm với cảnh quan xinh đẹp, mê hoặc lòng người – món quà quý mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vùng đất này.
-
Làng gốm Quế An còn được gọi theo cái tên hết sức bình dân khác là làng lò nồi. Cách đây hơn 15 năm, làng gốm hưng thịnh với hơn 100 hộ dân, vài chục nghệ nhân sản xuất gốm. Các sản phẩm đất nung thủ công như lu, ảng, nồi, niêu, ấm… của làng gốm nổi tiếng bền đẹp, góp mặt khắp các khu chợ trong và ngoài huyện.
Bà Võ Thị Sương – người giữ lửa làng nghề gốm Quế AnÔng Võ Danh Hoàng (thôn Thắng Tây, xã Quế An) chia sẻ: “Nhờ nghề gốm này mà nuôi sống cả làng thời ấy. Người ta gánh bộ đi khắp nơi từ chợ trong huyện, có khi vượt qua mấy đồi núi, đường mòn sâu để đến các vùng sâu, xa như Hiệp Đức, Nông Sơn, Phước Sơn…
Chiếc nồi đất được đắp theo từng khối đất sét tạo hìnhThời ấy, chủ yếu là đổi đồ gốm lấy các loại lương thực như bắp, lúa, hạt mít phơi khô… Người ta thường bảo nhau gốm Quế An (gốm Sơn Thắng xưa) gánh một đôi gốm dù vỡ mất một gánh vẫn lời. Giờ đây mỗi khi nhắc đến một thời huy hoàng của làng gốm Quế An, thế hệ chúng tôi chỉ có thể nhìn chúng qua ký ức của mình mà thôi”.
Những chiếc nồi gốm đang chờ mang đi phơiChưa ai làm giàu bằng nghề này, nhưng nó có thể nuôi sống được nhiều gia đình qua cơn khốn khó. Theo ông Hoàng, đất sét nơi đây mềm, khi nung có độ bền cao và khó nứt, đất sét có màu xanh trứng sáo phải đào sâu 1.2-1.5m mới lấy được. Người ta phải đi tới vùng giáp ranh với xã Quế Phong để mua đất sét, thuê người gánh hơn 1km mang về.
Bây giờ đi khắp thôn Thắng Tây không dễ gì “ngửi” được mùi đất, nhìn được những nồi, niêu… phơi đầy sân. Hiện nay, tại thôn Thắng Tây chỉ còn duy nhất hộ bà Võ Thị Sương vẫn còn đang cố gắng giữ lửa làng nghề.
Niêu sắc thuốcBà Võ Thị Sương cho biết: “Lý do mà tôi theo nghề này cũng bởi cái duyên, niềm yêu thích của mình với nghề truyền thống quê hương. Dù giờ giấc, công sức bỏ ra nhiều nhưng vì đã quá mê hương đất, hương gốm quê hương mà tôi không đành bỏ”.
Mỗi ngày, bà bắt đầu công việc từ 7 giờ sáng sau khi đã chuẩn bị xong cơm nước cho cả ngày, thời gian còn lại hoàn toàn là dành cho niềm yêu thích của mình. Có lúc khách đặt quá nhiều, bà phải thức đến khuya để hoàn thành sản phẩm.
Những nồi gốm đang được phơi trước khi đem vào lò nung
Hiện nay bà Sương sản xuất 7 loại sản phẩm từ đất sét trên quê hương bà gồm trả lớn, om lớn, om cầu với giá bỏ sỉ 18 ngàn/cái, khách mua lẻ thì bán 25 ngàn/cái; om chè, trả chung với giá 14 ngàn/cái; om nhỏ, trả nhỏ giá bán 5 ngàn/cái. Trung bình mỗi ngày bà kiếm được 300 ngàn.
Những khối đất sét được bà Sương nhào nặn kỹ càng thành khối trước khi làm nồiMỗi ngày bà có thể làm được 20 cái loại lớn, 40 cái loại trung và 60 cái loại nhỏ. Nhìn bàn tay thoăn thoắt, đôi chân nhanh nhẹn trên bàn xoay mới thấy hết được niềm đam mê của bà dành cho sản phẩm quê hương.
Có những lúc đơn đặt hàng nhiều đến mức làm không xuể, bà phải hồi lại khách để đảm bảo làm đủ cho người đặt trước. Nhu cầu thị trường ngày càng lớn khi mà các khu du lịch, nhà hàng, khách sạn ngày càng chuộng các sản phẩm truyền thống để trang trí hay chế biến món ăn…
Sản phẩm vừa thành hìnhBà Sương cho biết: “Giờ chỉ còn mỗi tôi làm gốm này thôi, ngày trước đơn đặt hàng nhiều thì còn nhờ những người già trong thôn đến làm. Nhưng giờ tuổi các cụ cũng đã cao, mắt mờ nên cũng chưa biết tính sao. Dù tôi cũng cố gắng thuyết phục nhiều người cùng thôn theo nghề, sẵn sàng chỉ họ công việc cũng như nhường mối làm ăn để duy trì làng nghề nhưng chẳng ăn thua. Bây giờ mọi người đều bỏ nghề để theo làm ở các khu công nghiệp nên làng nghề ngày càng đìu hiu và cũng do thu nhập khó khăn”.